Điều tâm đắc của Thủ tướng
Không phải tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 6,81% - mức cao nhất trong 5 năm qua, hay kỷ lục 400 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân phúc đã chọn bước cải thiện của Việt Nam trên các bảng xếp hạng thế giới để trả lời câu hỏi điều gì tâm đắc nhất trong năm 2017 của ông.
“Điều tôi tâm đắc nhất là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đã tăng 5 bậc, môi trường đầu tư kinh doanh tăng 14 bậc, chỉ số đổi mới - sáng tạo tăng 11 bậc, chỉ số tín nhiệm quốc gia từ ổn định lên tích cực, đồng tiền Việt Nam ổn định nhất khu vực châu Á, chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng 20 bậc…”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao đổi tại phiên đối thoại chính sách của Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2018 diễn ra cuối tuần trước.
Đầu tư đổi mới công nghệ là một trong những chìa khóa hóa giải dần thách thức về năng suất thấp của nền kinh tế Việt Nam. Ảnh: Đức Thanh |
Đây không phải là lần đầu Thủ tướng nhắc tới thứ hạng này, nhưng đặt trong bối cảnh kinh tế Việt Nam bước sang năm 2018 với không ít thách thức, có thể nói người đứng đầu Chính phủ tiếp tục truyền đi thông điệp mà ông đã đưa ra ngay trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ. Đó là đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm của hệ thống đổi mới quốc gia, xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, phục vụ người dân, doanh nghiệp Việt Nam...
Rất có thể Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, cũng có mặt tại Diễn đàn khi đó, sẽ tìm được câu trả lời cho vấn đề mà ông đã đặt ra trước phiên đối thoại này, đó là không phải là nền kinh tế có tăng trưởng không, mà là tăng trưởng thế nào.
Suốt năm 2017, cải thiện thứ hạng trên các bảng xếp hạng toàn cầu về năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB)… được người đứng đầu Chính phủ xác định là nhiệm vụ, đưa vào chỉ tiêu phải thực hiện trong nhiều văn bản điều hành của Chính phủ, trong các cuộc làm việc giữa Chính phủ với chính quyền địa phương… Mọi giải pháp đều hướng tới mục tiêu rất cụ thể, đó là tối thiểu đạt bằng trung bình của các nước ASEAN 4 trên các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh; tính minh bạch và khả năng tiếp cận tín dụng (theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới) thuộc nhóm 30 nước; chỉ tiêu Tạo thuận lợi trong tiếp cận vốn vay (đánh giá theo cách tiếp cận của WEF) đến năm 2020 thuộc 40 nước đứng đầu.
Nghị quyết 01/2018/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 cũng đã nhắc tới mục tiêu thứ hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng của thế giới trong năm nay là vào nhóm ASEAN 4 cả về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh.
Những tính toán để cải cách về môi trường kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, giảm thiểu điều kiện kinh doanh, thúc đẩy cổ phần hóa... đang làm thay đổi khá lớn phương thức quản lý của bộ máy nhà nước. Lần đầu tiên vào năm 2017, nhiều đề xuất cắt giảm điều kiện kinh doanh được đưa ra từ các bộ quản lý chuyên ngành, thay vì các nỗ lực đơn độc của doanh nghiệp và giới chuyên gia như gần hai mươi năm qua. Điều quan trọng, sự thay đổi này đang mở ra cơ hội, kích thích cộng đồng kinh doanh, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, tham gia thị trường.
Bài học từ 6.000 ngày thay đổi nước Nhật
Giới chuyên gia kinh tế tin rằng, sự hào hứng với kinh doanh và niềm tin với những cải thiện rất đáng kể vào môi trường kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân chính là nền tảng cơ bản cho tăng trưởng kinh tế năm 2018. Nền kinh tế không còn tăng trưởng dựa vào khai khoáng, phụ thuộc quá nhiều vào các gói kích thích kinh tế, mở rộng tín dụng…
Tuy vậy, không thể né tránh thực trang kinh tế đang đối mặt với nhiều thách thức trong trung và dài hạn. Thách thức quan trọng nhất mà chính người đứng Chính phủ đã đặt ra là làm thế nào để đạt được hai mục tiêu có vẻ mâu thuẫn là phát triển nhanh và bền vững.
Điều đó được thể hiện một phần qua việc Giám đốc chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Vũ Thành Tự Anh vẽ lại chu kỳ tăng trưởng của Việt Nam, để thấy rằng, Việt Nam có thể tăng trưởng cao, nhưng thời gian ngắn, thậm chí đỉnh cao tăng trưởng đang giảm.
“Việt Nam đang chịu thách thức lớn về năng suất, vì muốn tăng trưởng cao thì năng suất phải cao, nhưng hiện tại năng suất đang thấp. Nhân khẩu học đang không đứng về phía chúng ta”, ông Tự Anh chia sẻ quan điểm và nhắc đến thời gian của giai đoạn dân số vàng của Việt Nam chỉ còn khoảng 15 năm.
Một lần nữa, câu chuyện thành công của Nhật Bản được GS. Trần Văn Thọ, Đại học Waseda (Tokyo – Nhật Bản) chia sẻ. Bài học không mới, nhưng GS. Thọ cho rằng, dư địa để Việt Nam cải thiện năng suất còn rất lớn, vấn đề là cách làm.
Đặc trưng 6.000 ngày thay đổi nước Nhật, theo GS. Thọ là hệ thống giải pháp tăng năng suất lao động, đổi mới khoa công nghệ, để từ đó tạo nên mức tăng trưởng 10% liên tục trong 20 năm. Cụ thể hơn, trong giai đoạn này, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội luôn ở mức khoảng 30-35%, trong đó khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng 75%. Đồng thời, sự dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ rất rõ nét, song hành sự dịch chuyển từ các ngành giá trị gia tăng thấp lên lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn, tạo nên bước nhảy vọt về năng suất lao động.
Giai đoạn này, doanh nghiệp Nhật Bản nhập khẩu công nghệ tăng đột biến. Nếu như năm 1955, số tiền chi cho hoạt động này từ các doanh nghiệp là 20 triệu USD, với 186 vụ; thì năm 1973 đã lên 715 triệu USD, với 2.450 thương vụ.
“Tỷ lệ đầu tư của khu vực tư nhân Việt Nam tăng lên, nhưng tôi chưa thấy sự tăng lên tương ứng của đầu tư vào công nghệ. Có thể do quy mô của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quá nhỏ, chủ yếu là khu vực kinh tế cá thể. Việc cần làm là tạo cơ chế để khu vực này lớn mạnh hơn, cùng với đó là khai thông thị trường vốn, đất đai, khoa học – công nghệ để thúc đẩy sự dịch chuyển nguồn lực vào các doanh nghiệp hiệu quả”, GS. Thọ khuyến nghị.
Ông John Kerry, cựu Ngoại trưởng Mỹ cũng chia sẻ quan điểm rằng, nguyên tắc vận chuyển của dòng tiền là tìm đến nơi an toàn nhất, chi phí thấp nhất, lợi nhuận nhất.
“Đó cũng là cách tăng trưởng của những con hổ châu Á. Việt Nam phải thể hiện là đối tác cạnh tranh bình đẳng, sòng phẳng; tạo ra sân chơi cho các doanh nghiệp, thậm chí dẫn dắt các cơ hội kinh doanh, tạo dựng khung khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch. Khi đó, kinh tế Việt Nam sẽ thành con hổ mới”, cựu ngoại trưởng Mỹ nói.
Chưa bao giờ, từ khóa “thể chế, thể chế và thể chế” mà Thủ tướng nhắc tới khi trao đổi về giải pháp, quyết sách tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam trước các cú sốc bên ngoài lại rõ nét như vậy.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn